Hội thảo khoa học Á nam Trần Tuấn Khải

Cụ Á Nam Trần Tuấn Khải sinh năm 1895 tại làng Quan Xán, xã Mỹ Hà, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định trong một gia đình có truyền thống Nho học yêu nước, hậu duệ thứ 18 của anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo.

Sáng 18/8 tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã diễn ra Hội thảo khoa học về danh nhân Trần Tuấn Khải. Ông là nhà thơ Việt Nam nổi tiếng với các bút danh như: Á Nam, Đông Minh, Lâm Tuyền Khách, Lôi Hoàng Cư Sĩ. Tham dự hội thảo có ông Phạm Quang Nghị, nguyên Ủy viên Bộ chính trị; ông Bùi Thế Đức - Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương; giáo sư Hoàng Chương; giáo sư Nguyễn Đình Chú; giáo sư Hồ Sỹ Vịnh;  giáo sư Trần Nho Thìn cùng đông đảo các nhà khoa học và đông đảo các sinh viên. Đặc biệt, buổi Hội thảo còn có sự hiện diện của nhà thơ Lan Hinh, con gái của danh nhân Trần Tuấn Khải.
 


Nguyên ủy viên Bộ chính trị Phạm Quang Nghị phát biểu tại Hội thảo

Cụ Á Nam Trần Tuấn Khải sinh năm 1895 tại làng Quan Xán, xã Mỹ Hà, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định trong một gia đình có truyền thống Nho học yêu nước, hậu duệ thứ 18 của anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo.

Tại buổi hội thảo, giáo sư Hoàng Chương, Tổng Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy Văn hóa Dân tộc Việt Nam, đã gợi lại những đóng góp cũng như tinh thần yêu nước của Á Nam Trần Tuấn Khải. Cụ Á Nam không những là tấm gương sống và viết bất khuất thanh cao mà còn là nguồn động viên tinh thần quý giá đối với các thế hệ Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng, đổi mới, phát triển, giao lưu hội nhập của đất nước.

Từ năm 12 tuổi, cụ Á Nam đã làm đủ các thể thơ bằng chữ Hán và chữ Quốc ngữ. Khi 19 tuổi, Á Nam đã có những bài thơ nổi tiếng như Tiễn chân anh khóa xuống tàu, Cô bán nước, Gánh nước đêm… Từ năm 1921 đến 1930, Á nam Trần Tuấn Khải là một trong những tên tuổi nổi bật và có ảnh hưởng lớn nhất trên văn đàn Việt Nam với hàng chục cuốn sách bán rất chạy gồm Duyên nợ phù sinh (2 quyển), Bút quan hoài (2 quyển), Hồn tự lập (2 quyển) cùng các bộ sách lớn dịch từ Trung Hoa như: Đông Chu liệt quốc, Thủy hử, Liêu Trai chí dị, Hồn hoa, Tam tự kinh tập đọc, Mạnh Tử.


Những năm 1930 - 1945, dù bị chính quyền thực dân theo dõi, kiểm duyệt gắt gao nhưng cụ Á nam vẫn cho ra tập thơ Với sơn hà I đầy khí phách yêu nước với gần chục cuốn sách khác gồm một số bộ tiểu thuyết lịch sử, võ hiệp như Thạch đầu hồn, Thiên thai lão hiệp, kiếm châu duyên, Không Động kỳ hiệp, Kiền khôn võ hiệp và dịch hai bộ tiểu thuyết kinh điển của Trung Quốc là Hồng Lâu Mộng và Hồng Tú Toàn. Năm 1947, nhà cửa sách vở của Á Nam bị đốt hết. Năm 1948 cụ đưa gia đình về lại Hà Nội, đi dạy học ở trường trung học Chu Văn An và trường nữ học Trưng Vương, trường Nguyễn Trãi và một số trường tư thục.

Năm 1954, cụ vào Nam ở với mấy người con lớn đã sinh sống ở Sài Gòn từ lâu. Năm 1959, cụ chủ trương tờ Văn học tạp chí, nhưng chỉ ra được 2 số, sau không có tiền nên phải đình bản. Từ 1960, Á Nam Trần Tuấn Khải làm chuyên viên Hán học. Sang năm 1966, cụ cùng một số trí thức Sài Gòn ký tên yêu cầu chính quyền Việt Nam Cộng hòa hiệp thương với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam nhằm vãn hồi hòa bình nên bị buộc nghỉ việc.

Trong khoảng gần 9 năm, từ tháng 5-1955 đến tháng 3 năm 1963 trên tờ Văn hóa Nguyệt san từ số 2 tới số 79, cụ Á Nam đã có tới 53 mục bài bao gồm khảo cứu, dịch thuật, sáng tác thơ, kịch bản sân khấu (theo thống kê của tiến sỹ Phan Mạnh Hùng, khoa Văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn- Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh).

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Á Nam Trần Tuấn Khải được mời về làm cố vấn cho Hội Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh. Sau những bài Xẩm nổi tiếng “Tiễn Chân anh khóa xuống tàu” năm 1914, “Mong anh khóa” năm 1915, “Gửi thư cho anh khóa” năm 1922 viết những năm trai trẻ. Ở tuổi 80, Á Nam lại hân hoan viết bài “Mừng anh khóa trở về” để mừng non sông đất nước đoàn viên trong độc lập, tự do, hòa bình:
 
Sẽ cùng nhau thắt chặt sợi tơ đồng
 
Cùng nhau bồi đắp cơ nghiệp cha ông cho được vẹn toàn
 
Anh khóa ơi! Ta sẽ làm cho nổi tiếng với doanh hàn
 
Làm cho dân tộc với giang san rạng rỡ hơn người
 
Làm cho Bắc Nam sum họp chung vui
 
Cho nhau hưởng phúc muôn đời, anh khóa ơi!
 
Dường như thơ ca chưa đủ để nói lên tấm lòng yêu dân yêu nước của mình, Á Nam Trần Tuấn Khải còn sử dụng cả hình thức sân khấu, đặc biệt là chèo, môn nghệ thuật đặc sắc ở miền Bắc mà nhân dân vô cùng yêu thích
 
Giáo sư Nguyễn Đình Chú thì khái quát: Á Nam Trần Tuấn Khải- Ngôi sao sáng trên bầu trời thơ ca Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX. Năm 1976 trong một lần được diện kiến Á Nam Trần Tuấn Khải, giáo sư Nguyễn Đình Chú cảm nhận: Đây là một bậc thi bá, một nhân cách, một cuộc đời sống trọn vẹn với chính nghĩa vốn có gốc gác Nho Phong, Nho cốt mà với tôi là điều hấp dẫn nhất khi nghĩ đến chân giá trị của một người. Giáo sư Nguyễn Đình Chú khắc họa hai điểm nổi bật trong thành tựu thơ ca của Á Nam Trần Tuấn Khải. Một là, Á Nam đến với thơ ca với một quan điểm nghệ thuật:
 
Đời không duyên nợ thà không sống
 
Văn có non sông mới có hồn
 
Từ quan điểm nghệ thuật này mà hầu như thi tài thi hứng suốt đời suốt cả đời thơ của Á Nam chỉ xoay quanh một chủ đề là tấm lòng với non sông đất nước. Hai là, Á Nam Trần Tuấn Khải bước chân vào văn đàn ở giai đoạn giao thời của văn học dân tộc đang quá độ từ phạm trù văn học trung đại mang dấu ấn khu vực sang phạm trù văn học hiện đại mang tính toàn cầu thế giới.
 
Những câu thơ với hình ảnh một cô gái gánh nước ban đêm để bày tỏ nỗi niềm vất vả của những người đang lo toan trọng trách cứu nước mà chưa vào đâu, chỉ mong có thêm người cứu nước. Bài thơ Gánh nước đêm vang vọng đầy hình ảnh:
 
Em bước chân ra
 
Con đường xa tít
 
Non sông mù mịt
 
Bên vai kĩu kịt
 
Gánh nặng chị trở ra về
 
Ngảnh cổ trông sông rộng trời khuya
 
Vì chưng nước cạn, gánh nặng em dám kêu ai
 
Nghĩ tiếc công cho bà Nữ Oa đội đá vá trời
 
Con dã tràng lấp vể biết ngày nào xong
 
Bước đêm khuya thân gái dặm trường
 
Nước non gánh nặng cái đức ông chồng hay hãy có hay.
 
Giáo sư Nguyễn Đình Chú tổng kết: Á Nam Trần Tuấn Khải là một nhân cách lớn, suốt đời chỉ sống với chính nghĩa cảm mà từ đó là một ngôi sao sáng trên bầu trời thơ ca Việt Nam ta ở nửa đầu thế kỷ XX.
 
Giáo sư Hồ Sỹ Vịnh thì cho rằng, thơ Á Nam Trần Tuấn Khải mang đậm màu sắc, tình cảm dân gian, đồng thời mang tính hướng nội: trọng đạo lý làm người, làm công dân, nghĩa vụ cao cả của đấng nam nhi. Giá trị chân chính trong thơ ông với những câu thơ hào sảng, cảm hoài về non sông, về duyên nợ phù sinh, chua chát với đời, nhưng lại yêu đời. Những vần thơ, khổ thơ yêu nước thương nòi, lai láng tình người đã góp phần vào dòng thơ yêu nước và cách mạng trước 1945.
 
Nhóm PV

Link nội dung: https://phuongnam.vanhoavaphattrien.vn/hoi-thao-khoa-hoc-a-nam-tran-tuan-khai-a13618.html