Mạc Đỉnh Chi sinh năm Canh Thìn 1280, tự là Tiết Phu, người làng Lan Khê, huyện Bình Hà, lộ Lạng Giang, sau dời đến làng Lũng Động, huyện Chí Linh (nay thuộc thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương), dòng dõi Mạc Hiển Tích (Trạng nguyên thời nhà Lý, Mạc Hiển Tích đỗ Trạng nguyên năm Bính Dần 1086).
Năm Giáp Thân 1304, Mạc Đỉnh Chi 24 tuổi thi đậu Trạng nguyên, vua Trần lúc bấy giờ là Trần Anh Tông (1260 – 1314) thấy tướng mạo của Mạc Đỉnh Chi xấu xí, nên có ý chê, Mạc Đỉnh Chi liền dâng bài phú Ngọc tỉnh liên (sen giếng ngọc) vua Trần Anh Tông xem xong, khen thực tài.
Mạc Đỉnh Chi làm quan qua ba đời vua nhà Trần là Trần Anh Tông, Trần Minh Tông (1300 – 1357), và Trần Hiến Tông (1319 – 1341). Mạc Đỉnh Chi từng trải qua các chức: Nội thư gia; Nhập nội hành khiển; Tả tư lang trung; Thượng thư tả bộc xạ kiêm Trung thư coi việc quân dân, tước Đại liêu bân. Tính tình Mạc Đỉnh Chi liêm khiết được sỹ phu trọng vọng, ông từng hai lần đi sứ Trung Quốc, năm Mậu Thân 1308, ông đi sứ sang nhà Nguyên (1279 – 1368) để lại nhiều giai thoại và khí tiết cứng cỏi, tài ứng đối và biện giải, khiến cho quan lại nhà Nguyên phải kính nể.
Sau này Mạc Đỉnh chi về quê mở trường dạy học, người đương thời gọi ông là “Trạng nguyên cổ đường”, bản tính của ông thanh cao, liêm chính cương trực. Vào năm Canh Dần 1350, Mạc Đỉnh Chi mất, hưởng thọ 70 tuổi.
Về sáng tác văn học, ngoài bài phú Ngọc tỉnh liên, Mạc Đỉnh Chi còn có nhiều tác phẩm được truyền tụng. Ngoài ra theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sỹ Liên thì Mạc Đỉnh Chi còn viết Phiến minh thư (bài minh về chiếc quạt). Sách Thiền Tông Bản Hạnh có chép bài phú chữ Nôm là Giáo Tử Phú ghi là của Mạc Đỉnh Chi. Gá Tử Phú nội dung là truyền đạt giới răn của nhà Phật, mô tả cảnh trừng phạt những kẻ phạm giới ở địa ngục, đây là một trong những văn bản tác phẩm chữ Nôm cổ xưa nhất của Việt Nam hiện nay còn lưu giữ được.
Vương Quốc Hoa