Người sáng lập Nho gia

Thời Xuân Thu- Chiến Quốc (770 Tr.cn- 221 Tr.cn), xã hội Trung Hoa đang chuyển từ hình thái xã hội nô lệ suy tàn sang hình thái xã hội phong kiến làm trật tự cương thường trong xã hội đảo lộn, đạo đức suy đồi... Trước tình hình đó các nhà tư tưởng thuộc các tầng lớp khác nhau đã đề ra những chủ trương khác nhau về các vấn đề triết học, kinh tế, chính trị, nhân sinh học... Các nhà tư tưởng này trở thành những ông “Tử” tổ chức ra các học phái “Gia” và không ngừng công kích lẫn nhau.

Tình trạng đó dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của nền văn hóa thời Xuân Thu- Chiến Quốc. Sử thường gọi là “Bách gia tranh minh, chư tử phong khởi” (Hàng trăm học phái tranh luận với nhau, các thầy nổi lên như ong) hay còn gọi tắt là “Bách gia chư tử” (Hàng trăm học phái rất nhiều thầy) và trong đó nổi lên một học phái là học phái Nho gia do Khổng Tử sáng lập nên.
 

Cuộc đời Khổng Tử

Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ngày 22-9 năm Canh Tý 551 Tr.cn, nguyên quán tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Khổng Tử khi sinh ra đã có tướng khác lạ: môi dày, tay hổ, lưng rùa, miệng rộng, trán cao và lộ hầu. Thân sinh Khổng Tử là Thúc Lương Ngột, thân mẫu Người họ Nhan tên là Trương Tại. Năm Khổng Tử lên 3 tuổi thì thân sinh ông là Thúc Lương Ngột qua đời ở tuổi 73 ( năm Quý Mão 548 Tr.cn). 14 năm sau thân mẫu Khổng Tử cũng qua đời. 17 tuổi Khổng Tử mồ côi cả cha lẫn mẹ.

Khổng Tử lớn lên cao 1m91, có hình dáng phục phịch, đầu “mấp mô”, khi lớn lên Khổng Tử mình cao vai rộng và rất ham thích việc học hành, tuy nhiên các nhà quyền quý lúc đó rất ghen ghét ông nên luôn tìm cách gièm pha để các vua không trọng dụng đến.

Năm 19 tuổi, Khổng Tử lấy vợ và làm một chức quan nhỏ coi kho chuyên quản lý kho tàng , xuất nạp tiền lương công bằng chuẩn xác. Khổng Tử cũng từng đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường chăn nuôi súc vật sinh trưởng rất tốt, nhờ đó mà Khổng Tử được thăng lên chức làm quan Tư Không, chuyên quản lý việc xây dựng công trình. Năm 22 tuổi, Khổng tử mở lớp dạy học, học trò gọi ông là Khổng Phu Tử, hay còn gọi tắt là Khổng Tử. Trong tiếng Hán, “Tử” ngoài ý nghĩa là “con” còn có ý nghĩa là “thầy”, do đó Khổng Tử có nghĩa là thầy Khổng. Về sau này ông được người đời gọi là “Vạn thế sư biểu” (người thầy của muôn đời).

Vấn đề mà Khổng Tử dốc hết tâm huyết vào là việc làm cho xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ được ổn định. Và biện pháp của ông là khôi phục đường lối đức trị và lễ trị như thời Tây Chu.

Về triết học Khổng Tử là triết học nhân sinh. Nó bắt nguồn từ yêu cầu giải quyết các vấn đề chính trị. Học thuyết của Khổng Tử chủ yếu là học thuyết chính trị- xã hội. Học thuyết của Khổng Tử lấy đạo nhân làm điểm xuất phát. Học thuyết Khổng Tử lấy đạo nhân làm điểm xuất phát. Khổng Tử cho rằng con người có đạo nhân là do trời phú cho. Chỉ có quân tử mới có đạo nhân...

Từ điểm xuất phát về đạo nhân, Khổng Tử xác định các biện pháp cụ thể để cai trị xã hội. Chính Khổng Tử cho rằng mình là người kế thừa chu công xác định học thuyết chính trị cho xã hội phong kiến. Biện pháp cai trị của Khổng Tử bao gồm thuyết “chính danh”, “lễ trị” và “đức và hình”.

Khổng Tử còn dùng “lễ” và “chính danh” để điều hòa mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp thống trị. Nhưng học thuyết chính trị của Khổng Tử còn dựa trên nguyên tắc phân biệt xã hội thành hai loại: quân tử và tiểu nhân. Như vậy, lễ và chính danh là để dùng cho người quân tử, tức giai cấp thống trị, trong đó có cả kẻ sĩ (vì vậy lễ không xuống đến thứ dân) và cũng như khi nói về “nhân” đề cập đến mẫu người quân tử ở mỗi lúc mỗi người. Khổng Tử đã đưa ra những tiêu chuẩn tản mạn khác nhau. Song chung quy lại là : Quân tử phải đạt đến 9 điều sau: Khi nhìn thì phải nhìn cho minh bạch, khi nghe phải nghe cho rõ ràng, sắc mặt phải ôn hòa, tướng mạo phải nghiêm trang, nói năng phải trung thực, làm việc phải trọng sự kính nể, điều gì còn nghi hoặc phải hỏi han, khi tức giận phải nghĩ đến hậu họa và khi thấy lợi phải nghĩ đến điều nghĩa.

Bằng 9 điều trên, Khổng Tử đã đặt ra những yêu cầu từ hình dạng đến thâm tâm, từ cách ứng xử với đời của người quân tử. Những yêu cầu này theo Khổng Tử phải có sự trung hòa và gọi đấy là “ trung dung”. Trung dung nghĩa là dùng đạo trung dung làm lẽ sống thường ngày vậy “nghĩa là trung dung đòi hỏi con người đừng thái quá. Đảng phái quy về nội tâm cũng như đừng thái quá về ngoại hình, đừng thái quá về mình cũng như đừng thái quá về người. Nó giống như mối tương quan giữa “văn” và “chất”. Chất hơn văn trở nên thô kệch quê mùa. Còn văn hơn chất thì hào nhoáng bên ngoài, ít thực. Giữ cho văn chất trung hòa mới đạt đạo trung dung, mới là người quân tử.

Khổng Tử được vua nước Lỗ là Lỗ Định Công thăng chức làm Đại Tư Khấu va sau đó là Tướng quốc. Nhưng Lỗ Định Công vì quá say mê nữ nhạc của vua Tề Cảnh Công dâng tặng, suốt ngày chìm đắm xem múa hát, đêm thì ân ái chẳng còn biết gì đến chính trị nữa. Khổng Tử thấy vậy thì rất chán và cuối cùng Khổng Tử đã bỏ nước Lỗ, từ đây bắt đầu cuộc chu du của ông đến các nước chư hầu.

Nước đầu tiên mà Khổng Tử thấy là Vệ Linh Công yêu cái đức không bằng yêu cái sắc đẹp đàn bà, nên Khổng Tử đã bỏ nước Vệ sang nước Tống. Cùng học trò lập ra một căn nhà dưới gốc cây lớn để giảng về lễ nghĩa. Lúc đó tư mã nước Tống là Hoàn Khôi cũng được vua nước Tống lúc bấy giờ là Tống Cảnh Tông yêu vì có lòng ghét Khổng Tử, nên sai người chặt cây đi mà toan giết Khổng Tử. Ông phải thay hình đổi dạng chạy qua nước Trịnh, thấy vua Trịnh không dùng mình, Khổng Tử lại chạy qua nước Tấn. Lúc đó Triệu Ưởng giết hại rất nhiều hiền thần nên Khổng Tử đã than rằng loài cầm thú còn không nỡ đánh nhau huống chi là con người, nơi đây không phải chỗ cho ta giảng lễ nghĩa.

Sau đó Khổng Tử đã bỏ nước Tấn và lại về nước Vệ bởi vì lúc đó vua Vệ Linh Công đã mất, vua mới lên ngôi là Vệ Xuất Công. Nhưng giữa lúc vua Vệ và cha của vua Vệ là Khoái Quý tranh chấp nhau, Khổng Tử thấy việc trái lẽ như vậy thì bỏ sang nước Trần rồi nước Sái và ông đã được vua nước Sở là Sở Chiêu Vương đón về Sở. Khổng Tử thấy vua không tin dùng mình nên lại về nước Vệ nhưng không muốn phò tá vua Vệ và Vệ Xuất Công.

Cũng giống như Pi- Ta- Go và Xô- Crat, Khổng Tử chỉ giảng dạy bằng lời và không để lại một dòng chữ nào. Tất cả những gì chúng ta biết là do ghi chép của các học trò ông để lại.

Khổng Tử thu rất ít tiền của học trò, ông sống bằng tiền của một vài học trò giàu có cung cấp cho ông đặt trường học. Ông có hơn 3000 học trò, 72 trong số đó là học trò đặc biệt gần gũi, 12 học trò luôn ở bên ông.

Cuối cùng ông đã trở về quê hương của mình là nước Lỗ. Năm Nhâm Tuất 479 Tr.cn Khổng Tử chấm dứt công việc của mình khi cảm thấy cái chết đến gần, trong lúc trò chuyện với học trò ông hướng về chuyện xa xưa. Ông luôn phàn nàn là “không có một nhà cầm quyền nào muốn trở thành học trò của ông”. Trước lúc mất ông đau khổ kêu lên: “sau cái chết của tôi, ai sẽ gánh vác lấy công việc kế tục học thuyết của tôi”. Học trò đã chôn cất ông đúng nơi mà ông đã tự chọn chỗ đặt mộ cho mình không lâu trước đó bên một dòng sông nhỏ dưới tán cây bách diệp.

Khổng Tử mất ngày 18-2 năm Nhâm Tuất 479 Tr.cn, hưởng thọ 73 tuổi. Sau khi mất, học thuyết của Khổng Tử được cải biến nhiều lần và trở thành tư tưởng chỉ đạo hệ tư tưởng Trung Quốc. Ngày nay, học thuyết của ông được nhiều nước trên thế giới.

Khổng Tử dưới góc nhìn của người Phương đông

Theo lá số tử vi Khổng Tử là người có sao Thiên Lương vượng địa thủ mệnh. Đây là sao của những người có đức tính hiền lành đức hậu, ông lại sinh vào giữa ban đêm giờ Tý nên thân và mệnh đồng cung. Đây là bộ sao nói lên tính cách con người trước sau như một, không dễ bị tác động bởi ngoại cảnh.

Ở cung tài của Khổng Tử có Hóa Khoa lộc tồn cộng với cung mệnh có bộ Phượng Các giải thần, đây là những sao của những nhà giỏi sư phạm hoặc những nhà hiền triết, có khả năng thuyết phục nhiều người.

Cung Thiên di có sao Thái Dương miếu địa thủ chiếu cộng với sao Thiên Khôi, Hóa Lộc, chứng tỏ Khổng Tử là người thông minh xuất chúng.

Cung quan có sao Thiên Đồng hãm địa, điều này chứng tỏ ông là người tài giỏi nhưng không được làm quan to, nếu có làm chức to thì cũng không được lâu bền. Thiên Đồng hãm địa ở cung quan còn nói lên một điều là ông hay thay đổi chỗ ở, thường xuyên phải ly tán gia đình, quê hương, tuy nhiên cung quan của Khổng Tử có sao Văn Khúc và Quốc Ấn, đây cũng là những sao nói về khả năng thuyết khách và chứng tỏ Khổng Tử là một chính trị gia có tiếng, nhưng do có nhiều sao xấu hãm địa ( như Hóa Kỵ, Bệnh Phù, Thiên La...) nên những tư tưởng đạo đức của Khổng Tử khó được người đương thời chấp nhận, mặt khác ở thời Khổng Tử sống là từ thời Xuân Thu chiến tranh loạn lạc, nên những tư tưởng tiến bộ của Khổng Tử không phát huy nhiều tác dụng trong thời bấy giờ.

Cung tài của Khổng Tử có thiên cơ Thái âm vượng địa nên Khổng Tử là người có chí hơn người, tuy nhiên sao Thiên Mã tại cung này lại gặp Thiên Khốc ( ngựa đi vào đường cùng) nên khả năng thành công trong sự nghiệp là rất khó.

Khổng Tử là người mệnh Kim- Thoa xuyến Kim (vàng trang sức) nhưng ông lại gặp Hỏa cục, mà Hỏa thì khắc Kim, nên cuộc đời của Khổng Tử gặp rất nhiều trắc trở, mệnh của Khổng Tử đóng tại cung Tý (Dương Thủy) nên cũng khắc với Hỏa cục, vì vậy Khổng Tử không thể thành đạt trên con đường công danh sự nghiệp của mình.

Khổng Tử mất năm Nhâm Tuất 479 Tr.cn hưởng thọ 73 tuổi. Năm đó là sao Lưu Tang Môn của Khổng Tử ở cung mệnh và thân, đấy là một trong những sao Lục Sát, cộng với cung sao Thiên di có sao Bạch Hổ, cung tài có Lưu Thiên Khốc và Lưu Thiên Mã, cung quan có sao Lưu Thiên Hư, toàn là những bộ sao xấu ảnh hưởng trực tiếp đến đến bản mệnh, nên Khổng Tử đã không qua khỏi thời khắc.
 
Nguyễn Văn Vương

Link nội dung: https://phuongnam.vanhoavaphattrien.vn/nguoi-sang-lap-nho-gia-a11616.html