"Tịnh vi dân, động vi binh", những người nông dân chân chất trở thành anh hùng trong lửa đạn chiến tranh. Hình ảnh 4 vị anh hùng mà người dân Cai Lậy, Tiền Giang quen gọi là Tứ Kiệt cũng vì thế mà sống mãi. Ngày nay, về Cai Lậy hỏi lăng Bốn Ông thì hầu như ai cũng biết và truyền nhau những câu chuyện chống Pháp oanh liệt của các ông vào cuối thế kỷ XIX.
Những anh hùng chân đất
Lăng Tứ Kiệt tọa lạc tại đường 30 Tháng 4, thị trấn Cai Lậy, sừng sững, uy nghi. Hằng ngày bà con trong vùng vẫn khói hương nghi ngút. Trên cổng chính là dòng chữ “Lăng Tứ Kiệt” trang trọng, hai bên là câu đối ca ngợi chiến tích, công lao của bốn ông, cũng là lòng thành kính, tưởng niệm của thế hệ sau:
“Tứ vị anh hùng vị quốc hy sinh vĩnh niệm;
Kiệt nhân nghĩa cử tinh thần bất khuất lưu tồn”
Một góc Lăng Tứ Kiệt.
Hiện nay, sau nhiều lần trùng tu, sửa chữa, Lăng Tứ Kiệt khang trang và rộng rãi. Lăng được xây theo kiến trúc truyền thống, gồm: nhà tưởng niệm và nhà mồ. Nhà tưởng niệm ở phía trước rộng hơn 100m², mái cong hai lớp chạm rồng với 16 cây cột chạm khắc tinh xảo. Bên trong, chính giữa là bàn thờ, lư hương, bài vị. Hai bên có giá binh khí và đôi hạc cưỡi qui bằng gỗ được chạm khắc. Phía sau là nhà mồ với một lớp mái cong, 4 cây cột đỡ chạm rồng, phía dưới là 4 ngôi mộ được dán đá hoa cương màu đỏ sẫm. Tứ Kiệt bao gồm các ông Trần Công Thận, Nguyễn Thanh Long, Ngô Tấn Đước và Trương Văn Rộng.
Ông Trần Công Thận sinh năm 1825, là người xóm Võng, ấp Mỹ Phú, làng Mỹ Trang, huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường (nay thuộc ấp Mỹ Phú, xã Long Khánh, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang) là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa nên giặc Pháp và người dân địa phương hay gọi ông là “Ngươn (Nguyên) soái Thận”. Ông Nguyễn Thanh Long sinh năm 1820, là người xóm Cầu Ván, ấp Cẩm Hòa, thôn Cẩm Sơn, huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường (nay là ấp 2, xã Cẩm Sơn, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang) là người có tài thao lược. Vì là con thứ năm trong gia đình nên bà con quen gọi là ông Năm Long. Ông Trương Văn Rộng, nguyên quán thôn Tân Lý Đông, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường (nay là xã Tân Lý Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang). Ông Ngô Tấn Đước (có tài liệu ghi là Đức), là người xóm Vuông, thôn Tân Hội, huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường (nay thuộc xã Tân Hội, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang). Bốn Ông đều xuất thân là nông dân, quanh năm gắn bó với ruộng đồng nhưng kiên gan, dũng cảm, mưu lược và võ nghệ phi phàm.
Hưởng ứng kêu gọi vừa xây dựng kinh tế vừa chuẩn bị quốc phòng với phương châm "Tịnh vi dân, động vi binh" do cụ Nguyễn Tri Phương khởi xướng ngay sau khi Pháp chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, Bốn Ông về phò dưới trướng của Thiên Hộ Dương (tức Võ Duy Dương) và Đốc Binh Kiều. Đây là 2 thủ lĩnh nổi bật trong phong trào chống Pháp ở Nam bộ lúc bấy giờ. Tuy nhiên do thế yếu sức cô, lực lượng của Thiên Hộ Dương tan rã, Bốn Ông liền về Cai Lậy chiêu mộ nghĩa quân tiếp tục khởi nghĩa.
Địa bàn hoạt động của Bốn Ông chủ yếu ở các vùng nay là Tháp Mười, Cái Bè, Cai Lậy, Thuộc Nhiêu và Mỹ Tho. Mặc dù lực lượng rất mỏng, vũ khí thô sơ chủ yếu chỉ là giáo mác, gậy gộc nhưng nhờ hình thức tổ chức hoạt động “xuất quỷ nhập thần”, hành tung bí ẩn, ngày là dân đêm lại thành lính nên nhiều lúc lực lượng Tứ Kiệt khiến giặc trở tay không kịp. Với tinh thần yêu nước, ý chí kiên gan, quật cường, tài thao lược và võ nghệ, nghĩa quân Bốn Ông đã lập nhiều chiến công. Cuộc tấn công vào thành Mỹ Tho và trận thiêu hủy đồn Cai Lậy là hai trận đánh được xem là oanh liệt, tiêu biểu nhất. Khuya 1-5-1868, nghĩa quân bí mật đột kích vào thành Mỹ Tho đốt kho lương, giết được một số tên giặc. Đêm 24-12-1870 nghĩa quân tấn công, thiêu hủy đồn Cai Lậy và dinh Tham biện. Nhờ đó tiếng tăm nghĩa quân Tứ Kiệt ngày càng lừng lẫy, chiêu mộ thêm nhiều nghĩa sĩ, liên tiếp lập nhiều chiến công ở Mỹ Quí, Cái Bè. Từ đây cái tên Tứ Kiệt đã trở thành nỗi khiếp sợ đối với quân Pháp và bè lũ tay sai.
Truyền kỳ về Tứ Kiệt
Theo lời kể của các bậc cao niên trong vùng, Bốn Ông đều có sức mạnh phi thường, giỏi võ nghệ, tài thao lược trong tổ chức nghĩa binh. Vì vậy, quân Pháp truy tìm khắp nơi cũng không thể nào bắt được Bốn Ông. Bọn chúng đã dùng thủ đoạn thâm độc là bắt giam gia đình của Bốn Ông và 150 dân thường, tra tấn dã man để buộc các ông lộ diện. Tứ Kiệt đành phải xuất hiện để nộp mình. Thời gian bắt giam Tứ Kiệt, bọn chúng đã dùng mọi thủ đoạn tra khảo, mua chuộc, dụ dỗ các ông đầu hàng nhưng bất thành. Ngày 14-2-1871 (tức ngày 25 tháng 12 năm Canh Ngọ), quân Pháp chém đầu Tứ Kiệt ở chợ Cá (nay là chợ Cai Lậy). Bọn chúng chỉ cho gia đình mang thân thể Bốn Ông về chôn cất, còn thủ cấp thì đem bêu trong 7 ngày để khủng bố, uy hiếp tinh thần dân chúng rồi vùi xuống mé ruộng gần chợ. Thân nhân đành gắn đầu giả làm bằng đất sét để chôn cất các ông.
Bốn ngôi mộ của Tứ Kiệt phía sau lăng.
Trước tinh thần bất khuất vì dân vì nước của Tứ Kiệt, nhân dân Cai Lậy đã bí mật chôn thủ cấp của bốn ông và đắp mộ bằng đất, dựng miếu, hương khói trang nghiêm. Để che mắt chính quyền thực dân, người ta gọi đó là chùa Ông (vì phía trước lập bàn thờ Quan Công), còn phía sau lập bài vị khắc bốn chữ "Tứ vị thần hồn" sơn son thếp vàng rực rỡ. Tuy nhiên, trận bão năm Giáp Thìn (1904) làm ngôi miếu đổ sập. Ngôi miếu được dời về làng Thanh Sơn (nay là thị trấn Cai Lậy). Mãi đến năm 1954, nhân dân xây dựng lại ngôi miếu và bốn ngôi mộ tượng trưng bằng xi măng song song, gần sát nhau trên nền đất cũ. Khu vực này gọi là lăng Tứ Kiệt. Năm 1967, nhân dân Cai Lậy tiến hành trùng tu ngôi miếu và khu mộ, trong có miếu thờ. Năm 1997, trùng tu toàn diện khu lăng mộ Tứ Kiệt như ngày nay.
Hằng năm, cứ đến ngày 25 tháng Chạp, người dân Cai Lậy luôn thành kính tưởng niệm ngày Tứ Kiệt hy sinh. Lễ giỗ Tứ Kiệt đã trở thành lễ giỗ thân thuộc không chỉ của người dân Tiền Giang mà còn của những khách thập phương. Trong lễ giỗ, du khách sẽ được nghe chuyện của từng nhân vật trong Tứ Kiệt, thắp một nhén nhang như lời tri ân gửi đến các anh hùng ngã xuống cho độc lập dân tộc. Lăng Tứ Kiệt được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích cấp Quốc gia năm 1999.
Đình Phong
(Báo Cần Thơ)