1. Thanh Hương đến với sân khấu khá sớm. Từ những ngày là học sinh trung học phổ thông trong kháng chiến chống Pháp ở quê hương Nghệ An với các thầy Phan Xuân Hạt, Phan Cự Đệ, chị đã cho thấy năng khiếu và say mê kỳ lạ về viết, diễn kịch. Tốt nghiệp 9 năm trung học kháng chiến, chị xung phong đi dân công giao thông, được giao làm đội trưởng văn nghệ công trường làm đường miền Tây Nghệ An. Tại đây, năm 1954, năm 15 tuổi, Thanh Hương đã sáng tác vở kịch đầu tay mang tên Chuyện anh Đôi. Vở kịch kể chuyện một chàng trai vì bị gia đình ép lấy vợ đã trốn đi dân công, thành một lao động xuất sắc trên công trường. Tại đây, anh nảy sinh tình yêu với một cô gái đồng đội xinh đẹp giỏi giang. Tuy vậy, họ không dám đến với nhau vì cả hai đều đã bị gia đình hứa gả cho người khác.Chỉ đến khi ông bố chàng trai lên thăm đơn vị thì anh ả mới biết họ chính là đối tượng của cuộc hứa hôn đã khiến hai người trốn chạy này.Vở kịch được hoan nghênh nhiệt liệt trên công trường, tại các địa phương miền Tây Nghệ An và ít lâu sau đã được trao giải thưởng sáng tác của Ty Thông tin Tuyên truyền Nghệ An.
Thành công bất ngờ của vở kịch tự biên tự diễn có lẽ đã giúp Thanh Hương tự tin chọn con đường lập thân lập nghiệp cực kỳ khó khăn sau này: trở thành một nhà viết kịch chuyên nghiệp. Sau một thời gian được tuyển làm diễn viên của Đoàn Văn công Tổng hợp Nghệ An, Đoàn Văn công Khu IV rồi trở thành phóng viên báo Văn hóa của Bộ Văn hóa, tốt nghiệp hàm thụ khoa Ngữ Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội, 8 năm sau vở kịch tuổi hoa niên đáng nhớ ấy, năm 1962, Thanh Hương đã là tác giả vở diễn của một đơn vị sân khấu chuyên nghiệp nổi tiếng, vở Mùi hoa bưởicủa Đoàn Chèo Cổ Phong, Hà Tây. Thành công của Mùi hoa bưởi giúp Thanh Hương từ năm 23 tuổi đã được chuyển công tác về Vụ Nghệ thuật Bộ Văn hóa rồi Hội nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam với tư cách một nhà viết kịch chuyên nghiệp, trở thành đồng nghiệp của các tên tuổi lớn của sân khấu Việt Nam hồi ấy như Thế Lữ, Nguyễn Đình Nghi, Trúc Đường, Kính Dân, Tào Mạt, Hoài Giao, Xuân Trình, Tất Đạt…
Từ ấy cho đến năm 1992, năm Thanh Hương trúng cử đại biểu Quốc hội Khóa IX, từ một nhà viết kịch chuyên nghiệp chuyển sang làm chính khách chuyên nghiệp, trong thời gian 30 năm, nhà viết kịch xuất thân từ cô dân công hỏa tuyến xứ Nghệ ấy đã kịp có một thành tựu sáng tác ít người sánh kịp: gần 30 kịch bản được các đơn vị sân khẩu nổi tiếng dựng diễn, thu hút đông đảo người xem, tạo nên những sự kiện sân khấu khó quên, đạt được những giải thưởng văn học nghệ thuật danh giá.Thành công vang dội của các vở diễn mà Thanh Hương là tác giả như Đôi bạn, Tình xuyên đại dương (Nhà hát Kịch Trung ương), Ngôi sao ban ngày, Bản tình ca màu xanh, Thung lũng tình yêu, Đỉnh cao và vực thẳm, Đời người giấc mộng (Đoàn Kịch nói Hà Nội), Niềm hạnh phúc không tên (Đoàn Cải lương Kim Phụng), Vàng, Khi tình yêu lên tiếng (Đoàn Kịch nói Quảng Ninh), Bài ca người mẹ (Đài Tiếng nói Việt Nam), Mảnh đất hồi sinh (Đài Truyền hình Việt Nam)…đã ghi đậm cái tên Thanh Hương trong ký ức khán giả và đồng nghiệp sân khấu, từ những năm cuối kháng chiến chống Mỹ cho tới những năm đầu sự nghiệp đổi mới, một thời rất đáng tự hào của sân khấu và văn học nghệ thuật Việt Nam.
2. Thanh Hương vừa là nhân chứng vừa là người góp phần tạo nên cái thời mà bây giờ nhớ lại người ta thường gọi là thời hoàng kim của sân khấu Việt Nam. Đó là thời sân khấu rất hạnh phúc vì thấy mình thực sự có ích, cần thiết cho cuộc sống của đất nước. Các buổi diễn sân khấu dù là kịch nói hay ca kịch truyền thống, dù ở rạp hát trung tâm thành phố hay các nhà hát nhân dân, bãi diễn nghệ thuật ngoài trời, bao giờ cũng đông chật khán giả. Sân khấu được bàn nhiều không chỉ trên báo chí truyền thông mà còn ở trong công sở, ở các quán nước bình dân, trên các chuyến tàu xe. Người hoạt động sân khấu từ tác giả, đạo diễn, diễn viên rất được trọng vọng. Đó là thời các đơn vị sân khấu hết sức hào hứng đi và diễn, còn các tác giả rất hào hứng đi và viết. Nhiều tác giả sân khấu luôn có mặt ở những điểm nóng, những nơi được coi là những tuyến đầu, những nơi gian truân nguy hiểm nhất của cuộc sống, cuộc chiến đấu, sẵn sàng trả giá cho những trang viết bằng chính mạng sống của mình. Và Thanh Hương là một trong những nhà viết kịch xông xáo nhất thời ấy.
Những năm chống Mỹ chị từng có mặt ở Hợp tác xã Đại Phong nổi tiếng, tuyến lửa Quảng Bình, Vĩnh Linh, vào tận các cổng trời trên đường Trường Sơn rồi có mặt ở Sài Gòn những ngày đầu giải phóng…còn sau 1975 chị lại từng ăn dầm nằm dề ở công trình Thủy điện Sông Đà, Viện Cây trồng và Rau quả, Viện hạt nhân Đà Lạt, các mỏ Cọc 6, Mông Dương vùng mỏ Quảng Ninh, đến với các thủy thủ viễn dương ở Hải Phòng, vào các làng quê Duy Xuyên, Quảng Nam…Thanh Hương thường tự nhận nếu không có những chuyến đi thực tế chị không thể nào sáng tác nổi. Nói theo cách nói thời ấy thì những chuyến đi thực tế không chỉ giúp chị có cảm hứng và vốn sống để sáng tác mà còn giúp chị "sáng mắt sáng lòng", có khả năng nhận diện cuộc sống đúng thực chất, có dũng khí để yêu ghét phân minh, biết ca ngợi người đáng ca ngợi, phê phán kẻ đáng phê phán. Sức mạnh, sức hấp dẫn lớn nhất của các tác phẩm kịch Thanh Hương chính là ở khả năng đó và vở Vàng trên sân khấu Đoàn Kịch nói Quảng Ninh là một minh chứng.
Nếu sân khấu Việt Nam được vinh dự coi là một trong những loại hình nghệ thuật đi đầu, cánh chim báo bão của công cuộc đổi mới thì công lớn thuộc về ba vở kịch Tôi và chúng ta của Lưu Quang Vũ, Đoàn Kịch nói Hà Nội; Mùa hè ở biển của Xuân Trình, Đoàn Kịch nói Hà Nam Ninh; và Vàng của Thanh Hương. Không hẹn mà gặp, cả ba vở này đều được các tác giả viết năm 1984, xuất hiện trên sân khấu năm 1985, trước Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ VI một năm, và đều gây tiếng vang lớn bởi sự dũng cảm công phá không thương tiếc cơ chế tập trung quan liêu bao cấp cả ở sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, ca ngợi những con người đi đầu mở đường cho cơ chế mới, cơ chế người lao động được thực sự làm chủ xướng máy, ruộng đồng, làm chủ cuộc đời mình. Trong ba vở kịch có tính chất phá xiềng này, Vàng của Thanh Hương là quyết liệt nhất, khi không ngần ngại phanh phui cuộc sống nghèo đói bế tắc kiệt cùng của người công nhân mỏ và kết thúc bằng vụ sập hầm lò, cái chết của một nữ công nhân lương thiện và người giám đốc dám thay đổi tư duy, thay đổi phương thức sản xuất được công nhân tuyệt đối ủng hộ không chỉ bị cách chức mà còn bị ngồi tù. Đổi mới hay là chết chính là thông điệp cực nóng mà người xem nhận được từ Vàng của nhà viết kịch gốc Nghệ trong đêm trước của sự nghiệp đổi mới.
3. Giữa những ngày tháng 7 năm 2017 này, đọc lại các vở kịch của Thanh Hương viết từ 20, 30, 40 năm trước, tôi vẫn bàng hoàng vì sức sống vượt thời gian của chúng. Ngay cả một vở tưởng đã quá cũ kỹ như vở Đôi bạn, viết hơn 50 năm trước về phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc, dưới cái vỏ một đề tài dễ gây dè bĩu, vở kịch của Thanh Hương ẩn chứa nỗi đau, sự bất hạnh cũng như niềm vui, niềm hạnh phúc rất thật, không bao giờ cũ của con người.
Hay như vở Ngôi sao ban ngày được Thanh Hương hoàn thành ngay sau chuyến chị gửi hai đứa con thơ cho cơ quan Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam để vào sống với thanh niên xung phong và bộ đội cầu đường Trường Sơn năm 1972, cái năm ác liệt nhất của đường 20 Quyết Thắng, của Phu La Nhích, Tà Lê, Lùm Bùm, Chà Là…Đây là một trong những vở kịch dài đầu tiên về đề tài Trường Sơn, chỉ sau Đinh cao phía trước của nhà viết kịch Tào Mạt. Tuy vậy, cho đến nay, theo tôi, Ngôi sao ban ngày vẫn là một trong những vở kịch xúc động nhất, hiện đại nhất về đề tài Trường Sơn. Vở kịch xúc động vì đã làm sống lại một cách chân thật cuộc sống anh hùng, bi thương của các chiến sĩ Trường Sơn và hiện đại vì cho chúng ta thấy tại nơi tưởng chừng chỉ có cái tốt đẹp, sự hy sinh vô tư cao cả, vẫn có những kẻ ích kỷ ti tiện, mưu cầu danh lợi trên nước mắt xương máu đồng đội và tấn kịch giữa tốt xấu, thiện ác, thật giả vẫn diễn ra không ngừng giữa những con người, trong một con người…
Rồi hàng loạt vở kịch Thanh Hương viết những năm 1980 -1990, giai đoạn sung mãn của tài năng kịch lớn này, những Bản tình ca màu xanh, 1980, Đỉnh cao và vực thẳm, 1982, Tình xuyên đại dương, Thung lũng tình yêu, Vàng, 1984, Niềm hạnh phúc không tên, 1986, Hoa đất, Khi tình yêu lên tiếng,1988, Đời người giấc mộng, 1992…Dù viết về lĩnh vực nào, vùng đất nào, thời điểm nào của lịch sử đất nước, loạt kịch này đều rất chân thật, sinh động, mới mẻ, bất ngờ, hấp dẫn và đều đem đến cho người đọc, người xem những bài học nhân sinh thiết thân khó quên. Trong tình trạng thiếu kịch bản gay gắt của sân khấu hôm nay, loạt kịch này nếu được chỉnh sửa chút ít đều có thể được các đoàn kịch lấy dàn dựng lại và sẽ trở thành những tiết mục hay trong những năm cuối thập niên thứ hai thế kỷ 21 này.
Trong các vở kịch thời kỳ thăng hoa của Thanh Hương, Đỉnh cao và vực thẳm và Đời người giấc mộng là hai vở kịch xuất sắc có chung chủ đề về sự tha hóa không có điểm dừng của con người khi theo đuổi quyền lực và danh lợi bằng mọi cách, bằng mọi giá.
Đọc lại Đỉnh cao và vực thẳm, chợt nhớ đến “Đường đua trong bóng tối”, một vở kịch vừa được tung hô hết cỡ chỉ ba năm trước đây do nhà viết kịch đứng đầu ngành nghệ thuật biểu diễn viết theo ý tưởng của ông Bộ trưởng Văn hóa trong chương trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, Khóa XI, tôi mới thấy sự trùng hợp khó tin về nhân vật và tình tiết trong chuyện chạy chức chạy quyền của vở này với vở được viết hơn 30 năm trước của Thanh Hương. Chưa thể nói sự trùng hợp này là một cú đạo chích nhưng có thể chắc chắn rằng dù ra đời sau hơn 30 năm, tác phẩm do “bộ đôi hoàn hảo” Cục trưởng và Bộ trưởng đồng tác giả còn kém xa tác phẩm của nữ sĩ Thanh Hương cả về chiều sâu tư tưởng và đẳng cấp nghệ thuật.
Nếu Đỉnh cao và vực thẳm nói về quá trinh chạy chức chạy quyền thì Đời người giấc mộng ra đời sau đó cho biết sau khi đã chạy được chức quyền thì kẻ cơ hội sẽ củng cố, sử dụng nó thế nào. Trong vở kịch này, Thanh Hương tập trung lột trần cái xấu, cái đê tiện, đểu giả ở giới lãnh đạo cấp cao, ở tầng lớp thường được coi là tinh hoa của xã hội, của đất nước: tầng lớp trí thức. Có lẽ, trên sân khấu Việt Nam chưa bao giờ xuất hiện hai nhân vật trí thức đáng kinh sợ như đôi vợ chồng Vĩnh và Huệ trong Đời người giấc mộng, mà đó là những trí thức có hàm lãnh đạo cấp cao trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Ở khía cạnh nghệ thuật biên kịch, Đời người giấc mộng đã kết hợp rất nhuần nhuyễn, sáng tạo yếu tố hiện thực với yếu tố ước lệ tượng trưng để tăng hiệu quả thẩm mỹ của tác phẩm và chi tiết tấm gương soi dị hình dị dạng do đứa con trai lắp vào nhà cho bố mẹ cùng soi là một sáng tạo đắt giá. Đây là vở kịch được coi là đi trước thời đại, sớm cảnh báo một tệ nạn nay đã thành phổ biến được Đảng ta gọi tên là nạn tham nhũng quyền lực, một trong những vở kịch hay nhất của Thanh Hương, xứng đáng lọt vào danh sách “những vở kịch còn mãi với thời gian” của sân khấu Việt Nam.
4. Có rất nhiều điều để nói về Thanh Hương.
Đó là một người mẹ can đảm tuyệt vời.
Đó là một nữ đại biểu Quốc họi tận tụy, xông xáo, sắc sảo, quyết liệt từng gây sóng gió trên 10 năm ở chính trường đất nước thời kỳ đầu đổi mới.
Nhưng, với tôi, trước hết và sau cùng, Thanh Hương là một nhà viết kịch và một nhà viết kịch lớn, một niềm tự hào của sân khấu Việt Nam.
Đó là người đã đi thẳng từ sàn diễn quần chúng đến sân khấu chuyên nghiệp.
Đó là người luôn cho thấy sân khấu cần cuộc đời và cuộc đời cần sân khấu như thế nào.
Đó là người đã tạo sự nghiệp kịch đồ sộ, phong phú hấp dẫn, ít người sánh kịp, trong đó có những vở kịch còn mãi với thời gian.
Đó là nhà viết kịch có đủ tác phẩm hay xứng đáng tổ chức hẳn một Liên hoan sân khấu Thanh Hương.
Sao lại không nhỉ? Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam đã từng đứng ra tổ chức rất thành công các Liên hoan sân khấu Tổng Phước Phổ, Liên hoan sân khấu Lưu Quang Vũ. Sao lại không tiếp tục tổ chức các Liên hoan sân khấu của các tác giả có đóng góp lớn cho sân khấu Việt Nam khác như Liên hoan sân khấu Nguyễn Huy Tưởng, Liên hoan sân khấu Nguyễn Đình Thi, Liên hoan sân khấu Xuân Trình, Liên hoan sân khấu Thanh Hương…
Riêng Liên hoan sân khấu Thanh Hương, Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam có thể tìm được sự hỗ trợ của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, tỉnh Nghệ An, quê hương Thanh Hương và tỉnh Quảng Nỉnh, nơi chị có hai vở kịch để đời và là Đại biểu Quốc hội hai khóa. Đó là chưa kể có thể vận động các ngành, các địa phương và các đơn vị kinh tế tài trợ cho các đơn vị sân khấu phục hồi lại các vở hay của Thanh Hương viết về ngành, địa phương đơn vị mình.
Liên hoan sân khấu Thanh Hương cũng như Liên hoan sân khấu các tác giả có nhiều tác phẩm để đời khác không đơn giản chỉ là để tôn vinh các tác giả mà còn là cú hích cần thiết cho đời sống sân khấu đang quá nghèo nàn, vắng lạnh, hoang tàn vì quá thiếu các kịch bản hay.
Sau khi đọc lại kịch Thanh Hương tôi rất nóng lòng được dự một Liên hoan sân khấu Thanh Hương.
Nguyễn Thế Khoa