Chiếc vạc thứ hai được đúc năm 1659
Trong bộ sưu tập vạc đồng này chỉ có 1 chiếc được làm đầu tiên trước năm 1659 có hình dáng khác, 10 chiếc còn lại có kiểu dáng tương tự như nhau được chia thành 2 loại là 4 quai và 8 quai. Cũng vì lý do này, có giả thiết cho rằng chỉ có 10 chiếc vạc làm sau là có bàn tay của ông Cruz tham gia thực hiện.
Chiếc vạc được làm đầu tiên quá khác biệt và mang thiết kế, trang trí thuần Việt. Chiếc vạc này hiện đang được đặt ngay trước hiên điện Long An (nay là tòa nhà trưng bày chính của Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế). Đây là một chiếc vạc có hình dáng rất lạ - tương tự một chiếc nồi kích thước lớn, cổ thắt bụng phình to, trên cổ có 4 quai được tạo dáng khá đẹp. Quanh thân vạc, gần trên cổ có trang trí. Điều đáng nói là từ trước đến nay chưa thấy ai đề cập đến chiếc vạc độc đáo này. Trên thân vạc có đề niên đại “Tuế thứ Tân Mùi nhuận trọng xuân”, tức năm 1631. Trọng lượng vạc 560 cân. Các nhà lịch sử, văn hóa hầu hết thống nhất với ý kiến: “Chiếc vạc này chắc chắn do người Việt Nam đúc, còn đúc tại đâu thì chưa có câu trả lời chính xác”.
Chiếc vạc thứ hai được đúc năm 1659, hiện được đặt phía trước điện Kiến Trung, bên trong Tử Cấm Thành Huế. Vạc có 4 quai. Trên miệng vạc có ghi rõ năm đúc là Thịnh Đức thứ 7 và trọng lượng chiếc vạc là 2.154 cân (khoảng 1.378 kg). Trên miệng đỉnh có khắc dòng chữ "nhất song" (nghĩa là một đôi) nhưng hiện còn chỉ 1 chiếc.
Chiếc vạc thứ ba này cũng được đúc vào năm 1659, nhưng không đề niên hiệu vua Lê mà đề niên đại theo can chi (Kỷ Hợi niên tứ nguyệt tạo đỉnh), trọng lượng của vạc chỉ là 560 cân, nhưng nó lại có cùng kiểu dáng và hình thức trang trí với chiếc vạc đặt trước điện Kiến Trung. Cùng niên đại và cùng hình dáng, kiểu thức trang trí. Vạc có 4 quai. Trên miệng chiếc vạc thứ 2 này còn khắc 3 chữ "Nội phủ tướng".
Chiếc vạc thứ tư, thứ năm, 2 vạc này hiện đang được đặt trước sân điện Cần Chánh, bên trong Tử Cấm Thành. Đây là 2 chiếc vạc có kích thước và trọng lượng lớn nhất trong các vạc thời chúa Nguyễn. Chiếc thứ nhất đúc năm 1660 (năm Thịnh Đức thứ 8), trọng lượng 2.482 cân, chiếc thứ hai đúc năm 1662 (Thịnh Đức thứ 10), trọng lượng 2.425 cân, cả hai đều có đường kính miệng trên 2,2m, cao trên 1 m. Hai chiếc vạc này có hình dáng và kiểu thức trang trí rất giống nhau, có 4 quai, trên miệng vạc đều khắc 2 chữ Hán "Nhất Song" (một đôi).
Chiếc vạc thứ sáu đúc vào năm Cảnh Trị thứ 8 (1670), hiện đặt ở phía trước, bên phải Duyệt Thị Đường, nặng 938 cân.
Vạc thứ bảy, là chiếc cùng đôi với chiếc vạc đặt ở Duyệt Thị Đường và nó được đúc sau đó 1 năm (1671), hiện được đặt ở góc sân phía đông điện Thái Hoà. Chiếc vạc còn lại nặng 896 cân, hình thức trang trí gần giống như chiếc kia.
Chiếc vạc thứ tư đúc năm 1660 (năm Thịnh Đức thứ 8), trọng lượng 2.482 cân
Vạc thứ tám và thứ chín, đôi vạc này dễ nhận biết vì từ hình dáng đến kích thước đều tương tự nhau, tuy nhiên, niên đại đúc của chúng lại lệch nhau đến 13 năm. Đó là hai chiếc vạc đặt trước sân điện Càn Thành. Chiếc bên trái (nhìn từ trong ra) đúc năm Chính Hoà thứ 5 (1684), nặng 1395 cân, chiếc bên phải đúc năm Cảnh Trị thứ 10 (1671), nặng 1.390 cân. Cũng như hai chiếc vạc đặt trước sân điện Cần Chánh, hai chiếc vạc này có lẽ đã được đặt tại đây từ rất sớm.
Vạc thứ mười, được đặt trong khuôn viên phần tẩm điện lăng Đồng Khánh, phía đầu hồi nhà Hữu Vu (của điện Ngưng Hy). Vạc loại 4 quai, đúc năm Dương Đức thứ 2 (1673), nặng 1.013 cân. Tuy trên miệng vạc có đề 2 chữ Hán "nhị song" (tức 2 đôi) nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm ra loại vạc cùng cặp.
Vạc thứ mười một, hiện đặt phía trước hiên, bên trái điện Long An, được đúc vào năm Đinh Tỵ (1667). Chiếc vạc này nặng 560 cân, có 4 quai, trên miệng có đề nhất song nhưng chưa tìm ra chiếc cùng đôi với nó. Điểm đáng chú ý ở chiếc vạc này là trên miệng vạc có khắc 3 chữ tiền chính cung tức nguyên xưa nó được đặt trước cung điện chính của phủ chúa.
Bốn chiếc vạc còn lại được đúc dưới thời vua Minh Mạng, hiện nay đặt tại điện Hòa Khiêm, trong khu vực lăng Tự Đức. Bốn chiếc được đặt đối xứng với nhau, lấy trục đối xứng là đường Thần đạo của phần tẩm điện và gần như lấy điểm đối xứng là vị trí đặt chiếc đỉnh đồng đốt vàng mã hình chữ nhật đặt gần như ở chính giữa sân. Theo thứ tự từ trong (phía điện Hòa Khiêm) ra ngoài, từ trái qua phải, về trọng lượng 4 chiếc vạc trên có khác nhau, về hình thức và kích thước thì gần như tương tự. 4 quai đặt thấp dưới miệng vạc, quai tạo kiểu đầu rồng, thân vạc hình chum, thân trơn, không trang trí, chân đế hình tròn, làm bằng đá Thanh.
Vạc đồng tại Kinh thành Huế xưa kia không chỉ có 15 cái mà có rất nhiều, trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử đã mất đi nhiều. Vạc đồng phản ánh một thời kỳ huy hoàng của ngành đúc đồng Huế, mang giá trị lịch sử cao. Tuy nhiên với 15 cái vạc đồng này, du khách có thể tìm hiểu về ngành đúc đồng một thời và ngành mỹ thuật trên đồ đồng. Bộ sưu tập 15 chiếc vạc đồng được xem là bộ sưu tập nhiều nhất và độc nhất về loại này và được xem là bảo vật của quốc gia.
Ngô Sinh