Đền đá cổ Phú Đa thuộc xã Phú Đa, huyện Vĩnh Tường
Là vùng đất cổ thuộc đỉnh đồng bằng châu thổ sông Hồng, vùng chuyển tiếp văn hoá Hùng Vương xuống văn hoá Kinh Bắc - Thăng Long, Vĩnh Tường có nền văn hóa lâu đời và phong phú với hệ thống di sản văn hóa đa dạng, đặc sắc gồm các di tích lịch sử, lễ hội, trò chơi dân gian, các thể loại văn nghệ dân gian…Hiện nay, trên địa bàn huyện có 239 di tích, trong đó, có 18 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia, 49 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Không được nhiều người biết đến như Đình Thổ Tang, Chùa Hoa Dương... nhưng Đền đá Phú Đa lại mang trong mình những giá trị riêng biệt, độc đáo.
Đền Phú Đa lúc ban đầu vốn là một ngôi tư gia, đảm nhận chức năng của một ngôi sinh từ (lập đền thờ khi còn đang sống) của danh thần Nguyễn Danh Thường, thế kỷ XVIII. Vốn xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo ở xã Phú Hoa, lúc nhỏ Nguyễn Danh Thường phải đi chăn trâu cho địa chủ. Trong một lần đi thả diều cùng đám bạn chăn trâu, cậu bé Thường được vị quan Thượng thư người sở tại thấy dung mạo khôi ngô, tư chất thông minh bèn nhận làm con nuôi. Lúc trưởng thành, ông được gia đình đưa về kinh thành Thăng Long để học tập, sau đó thi đỗ Tiến sĩ và ra làm quan dưới triều Lê - Trịnh. Ông được triều đình cử đi dẹp các cuộc khởi nghĩa nông dân trong giai đoạn này, lập được nhiều chiến công hiển hách.
Nguyễn Danh Thường được vua Lê - chúa Trịnh rất sủng ái, tin dùng. Về sau được phong là “Lãng Phương Hầu, Tham mưu quan Đô đốc phủ, Khâm sai kiểm sát thất thành”, trấn thủ cả một vùng rộng lớn từ Sơn Tây đến Thái Nguyên. Khi còn làm quan, cụ rất quan tâm đến làng xã Phú Đa. Cụ đã cấp ruộng cho người nghèo, cấp tiền cho dân làng mua trâu bò, nông cụ sản xuất. Đặc biệt quan tâm đến giáo dục và lớp người cao tuổi, cụ giao cho dân làng quản lý ruộng “Học điền” để có nguồn trả công cho thầy dạy học và ruộng “Bút chỉ” để có nguồn chi phí mua giấy bút cho con em đi học, giao ruộng “Mũ áo” để có kinh phí mua mũ áo cho người già từ 70 tuổi trở lên. Cụ còn cấp điền đắp cống làm thủy lợi phục vụ nông nghiệp, mở chợ cho bà con trong vùng.
Do đảm nhiệm nhiều trọng trách, Nguyễn Danh Thường có rất nhiều bổng lộc, ông xây dựng hẳn một dinh cơ lớn ở quê nhà toàn bằng đá xanh và gỗ lim được vận chuyển từ Thanh Hóa ra. Đền Phú Đa là công trình duy nhất còn gìn giữ được đến tận ngày nay từ khu dinh cơ đó.
Theo các cụ tiền bối trong dòng họ kể lại, ngôi đền được xây dựng trong 40 năm, từ năm 1646 đến năm 1686, cách đây gần 400 năm, khi đó cụ Nguyễn Danh Thưởng còn sống và đang làm quan trong triều Lê. Ngôi đền chỉ qua vài lần tu sửa nhỏ, điều đó chứng tỏ độ bền của các chất liệu, vật liệu để xây dựng. Người dân địa phương thường so sánh, ví von rằng:
“Bắt đền ra đền Phú Đa
Bao giờ đền đổ ta ra ta đền”
Tượng voi đá được đặt tại sân Đền Phú Đa
Sở dĩ được như vậy là nhờ người thợ khi xưa đã rất thành công khi kết hợp và đưa loại vật liệu bền vững nhất có được khi đó là đá, gỗ lim để làm các kết cấu chịu lực và dùng gạch đá ong xây tường bao. Cùng với đó là việc gia cố, xử lý móng nền rất khéo léo nên cho dù đền được xây dựng ngay sát chân đê, giữa vùng ruộng ao quanh năm trũng nước, thậm chí lũ lụt mà vẫn không ảnh hưởng tới công trình.
Hiện, Đền tọa hướng Đông Nam, cấu trúc bao gồm 2 trụ đá lớn phía trước cổng đền, tiếp đến là cổng đền, qua một khoảng sân rộng có 2 hàng tượng võ sĩ và voi ngựa bằng đá chầu 2 bên,tiếp đến là tòa đại bái và tòa hậu cung. Trong tòa đại bái có 10 bia đá được chạm khắc chữ Hán dày đặc kín mặt mỗi tấm bia, vẫn còn nguyên đường nét sắc sảo, hai bên là hai tượng võ sĩ bằng đá xanh đứng gác. Có tượng 2 vị thư lại bằng đá xanh ngồi quỳ 2 bên phía trước cửa giữa của tòa hậu cung. Trong tòa hậu cung có 5 ngai thờ chia thành 2 hàng, 1 sập đá đặt trước ngai thờ. Hệ thống cột gỗ lim to vẫn còn nguyên vẹn đứng sừng sững uy nghi; các cặp sư tử đá, rồng đá, chó đá… được bố trí ở các vị trí hai bên của cổng đền và tòa đại bái, chưa hề có dấu hiệu bị ảnh hưởng gì của thời gian trong gần 400 năm qua.
Đi cùng với kiến trúc độc đáo trên là hệ thống các cấu kiện gỗ như: xà, kẻ hiên, thậm chí cả các cấu kiện vốn là nơi thường được người nghệ nhân dân gian thể hiện bằng bàn tay tài hoa như: ván nong, ván gió, y môn, cửa võng cũng đều được bào trơn, đóng bén, soi gờ kẻ chỉ đơn giản, liên kết mộng sàn chặt chẽ. Điều này cho thấy vị chủ nhân ngôi sinh từ này ưu tiên chú trọng độ bền, tính vĩnh cửa của công trình. Ở đền Phú Đa còn sử dụng cả chất liệu đá xanh rắn chắc để liên kết làm xà ngưỡng, bó bậc và làm chân tảng kê cột, dùng gạch đá ong để xây tường bao không phải là sản phẩm có sẵn của địa phương.
Những chạm khắc đá ở đền Phú Đa đã phản ánh những thành công nổi bật về trình độ chạm khắc và trang trí đá thời Lê – Mạc. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa việc thể hiện những mảng khối và đặc tả chi tiết, giữa bố cục toàn thể với thể hiện từng bộ phận trong tạo hình. Các nghệ nhân xưa đã biết căn cứ vào chất liệu và màu sắc của đá để vận dụng trong tạo hình cũng như trang trí nội thất kiến trúc. Với kỹ thuật chạm khắc điêu luyện, cùng những đề tài có thật trong cuộc sống, chạm khắc ở đền Phú Đa đã tạo nên cho di tích sự trang nghiêm mà không lạnh lùng, tôn thờ các thân linh mà vẫn ấm áp hơi thở của cuộc sống con người.
Tượng đá được chạm khắc tinh xảo được đặt trong đền
Đá dùng xây dựng đền.
Phía đầu đốc tường đá ong của ngôi đền còn lỗ chỗ dày đặc những vết đạn bắn vào nhưng không thể xuyên thủng được bờ tường
10 bia đá ở đền Phú Đa còn nguyên vẹn, được khắc văn tự Hán nội dung ghi về hương ước, điều lệ nghi tiết cúng giỗ hậu thần, phúc thần và liệt tổ, liệt tông, ghi khắc các điều dạy bảo con cháu biết cách ăn ở, các điều cam kết và bổn phận đối với từ đường. Không chỉ chăm lo cho bản thân qua việc tự dựng cho mình một ngôi sinh từ, Nguyễn Danh Thường còn là một người rất có trách nhiệm với cộng đồng, hiếu kính với tổ tiên. Ông cho khắc vào bia đá các điều khoản hương ước của làng xã, những ngày giỗ kỵ và các nghi lễ tế tự; rồi với cái nhìn xa trông rộng của một người văn võ song toàn, nhiều kinh nghiệm sống mà ông lập bia để ghi các lời dạy của các bậc thánh nhân, hiền tài để con cháu về sau lấy đó làm thước đo chuẩn mực về đạo đức, lối sống, trở thành những người có ích cho xã hội và làm rạng rỡ dòng họ, quê hương, đất nước.
Tháng 2/1990, đền Phú Đa được Bộ Văn hóa công nhận là di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia. Với ý nghĩa lịch sử - văn hóa trên, từ bao đời nay, đền Phú Đa luôn được hậu duệ của Lãng Phương Hầu Nguyễn Danh Thường truyền đời gìn giữ, hương hỏa, để di tích lịch sử - văn hóa này mãi là nơi gắn kết cộng đồng. Đây cũng là nơi để mỗi người dân địa phương gửi gắn niềm tin, tâm hồn của mình sau những tháng ngày lao động vất vả “một nắng hai sương”. Để bảo tồn, tôn tạo và phát huy những giá trị văn hóa quý giá này, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương đã và đang có những việc làm thiết thực, để di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia giàu ý nghĩa văn hóa này không bị mai một theo thời gian.
Chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật, đền Đá – Phú Đa không chỉ là địa điểm tham quan hấp dẫn mà còn là nơi để học tập, nghiên cứu, thông qua đó để tìm hiểu, gìn giữ và phát huy một di sản văn hóa quý giá, tiêu biểu của huyện Vĩnh Tường nói riêng và tỉnh Vĩnh Phúc nói chung.
Lê Hoàn